• Chào mừng bạn đến với Hội những người đam mê Văn hóa Óc Eo (Các bài viết trên website chỉ mang tính chất sưu tầm)
  • Chào mừng bạn đến với Hội những người đam mê Văn hóa Óc Eo (Các bài viết trên website chỉ mang tính chất sưu tầm)

Óc Eo Cultural Heritage

Vương quốc Phù Nam: Thương cảng cổ Óc Eo (Thương cảng Quốc tế đầu Công nguyên)

Theo thư tịch cổ, Óc Eo nằm trong vùng có tên gọi là Naravaranagara (Na Phật Na). Không ảnh của các nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện một con kênh thẳng tắp dài 100 km nối Óc Eo với Châu Đốc; một hệ thống sông cắt ngang, nối trục kênh chính với biển là chuỗi 5 kênh nối Châu Đốc với Angkor Borei ( Campuchia ).

Ngày xưa, tại một vùng đất nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có một cảng biển sầm uất tên là Óc Eo. Cảng này đã tồn tại từ thế kỷ 1 trước Công nguyên đến thế kỷ 7 sau Công nguyên và có thể đã là nơi mà người Hy Lạp và người La Mã gọi là Cattigara. Văn hóa Óc Eo là một phần quan trọng của di sản văn hóa Việt Nam và đang được nghiên cứu và bảo tồn một cách cẩn thận.

Óc Eo không chỉ là một cảng biển quan trọng mà còn là trung tâm của văn hóa. Khu vực này được bố trí với hệ thống giao thông thủy lộ phức tạp, kết nối với các khu vực khác qua các con kênh và sông. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích tại Óc Eo và các vùng lân cận, chứng minh sự phồn thịnh và sự giao thương văn hóa tại đây.

Cư dân Óc Eo sống trên các nhà sàn bằng gỗ ven hệ thống sông rạch tự nhiên và nhân tạo, mái lợp lá hoặc ngói. Họ ăn chủ yếu là lúa gạo, và nắp đậy bằng gốm là một trong những hiện vật đặc sắc của nền văn hóa này. Ngoài ra, các vật dụng dùng để đựng như bình, chai gốm, lọ, hũ cũng chiếm số lượng khá nhiều. Văn hóa Óc Eo là một phần quan trọng của di sản văn hóa Việt Nam và đang được nghiên cứu và bảo tồn một cách cẩn thận.

Nghiên cứu về biển tiến, biển thoái và các dấu tích gắn liền với yếu tố biển tại khu vực Óc Eo - Ba Thê đã khám phá rằng khu vực dưới chân núi Ba Thê cách bờ biển hiện nay khoảng 85 km, xưa kia là vùng đất duyên hải. Nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret đã thực hiện nhiều chuyến khảo sát viễn thám bằng máy bay trong những năm 40 của thế kỷ 20. Ông ghi nhận về những dấu tích thương cảng cổ nằm ven chân núi Ba Thê. Kết nối với nó là hệ thống lung nước và đường nước lan tỏa ra các khu vực trung tâm khác. Đặc biệt, còn có một hệ thống dấu tích dòng sông cổ kết nối với khu vực tiền cảng thị Nền Chùa - Kiên Giang để ra biển lớn. Tất cả những dấu tích này xác định vị trí Óc Eo nằm trong một vịnh lớn ở khu vực biển Hà Tiên. Biển tiến là một sự kiện địa chất diễn ra khi mực nước biển dâng tương đối với đất liền và đường bờ biển lùi sâu vào trong đất liền gây ra ngập lụt.

Gương đồng thời Đông Hán phát hiện tại Giồng Cát - Cánh đồng Óc Eo năm 2019

Tại thời điểm đó, Malleret đã phát hiện các di tích Óc Eo dưới chân núi Ba Thê có chu vi khoảng 9 km, tương ứng với một hình chữ nhật có cạnh dài 3,6 km và cạnh ngắn là 1,5 km. Từ máy bay, quan sát núi Ba Thê, chúng ta thấy nó được bao quanh bởi mạng lưới các con sông và lạch lớn nhỏ. Từ đỉnh núi, chúng ta có thể quan sát toàn bộ vùng châu thổ xung quanh. Điều này cho thấy Óc Eo đã được bố trí trở thành trung tâm của một hệ thống giao thông thủy lộ. Sự bố trí này chứng tỏ có một chính quyền đủ mạnh và văn minh để hoạch định toàn bộ kế hoạch. Bố trí tại Óc Eo cũng có nhiều điểm tương đồng với những thành phố cổ ở Ấn Độ, ví dụ như thành phố Mohenjo-daro phát triển vào thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên với việc quy hoạch thành phố và công tác trị thủy.

Không có hình ảnh, nhưng các nhà khảo cổ học người Pháp đã phát hiện một con kênh dài 100 km nối Óc Eo với Châu Đốc. Hệ thống sông và lạch cắt ngang nối trục kênh chính với biển, tạo thành chuỗi 5 kênh nối Châu Đốc với Angkor Borei (Campuchia). Như vậy, khu vực này được nối với nhau thành từng phức hệ, liên kết Óc Eo với Châu Đốc và sau đó Angkor Borei, từ Óc Eo ra biển.


Nhóm hiện vật có nguồn gốc từ Tây Á phát hiện tại Óc Eo - hiện vật Bảo tàng Lịch sử TP.HCM

Vị trí địa lý của Óc Eo đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển giao thương hàng hải và kinh tế. Những đồng bằng phì nhiêu xung quanh Óc Eo đã hỗ trợ cho cuộc sống đông đúc của cư dân Phù Nam và vẫn là một minh chứng cho sự phồn thịnh của khu vực này. Điều này đã thúc đẩy việc trao đổi kinh tế và giao lưu văn hóa.

Với vị trí địa lý như vậy, việc mở các tuyến thủy lộ để thương nhân đến Óc Eo đã trở thành một vấn đề quan trọng. Đối với quốc gia Phù Nam, việc duy trì các tuyến giao thương này là vô cùng quan trọng. Thực tế cho thấy, Phù Nam đã phụ thuộc mạnh mẽ vào con đường hương liệu qua khu vực Đông Nam Á. Có hai tuyến đường chính mà thương nhân sử dụng để đến thương cảng Óc Eo. Thương nhân từ Nam Ấn có thể đi qua vịnh Bengal đến eo biển Kra hoặc eo biển Malacca. Từ đó, họ tiếp tục vào vùng biển vịnh Thái Lan và đến tiền cảng Nền Chùa. Còn đối với thương nhân từ phương Bắc như Trung Quốc, họ sẽ theo bờ biển miền Trung, đi qua cửa biển hạ lưu sông Mê Kông và ngược dòng sông Tiền, sông Hậu để đến Óc Eo.

Tại Óc Eo, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều hiện vật thú vị. Trong số đó, có 2 huy chương và tiền La Mã bằng vàng, thuộc thời Antoninus Pius (năm 138-161 sau Công nguyên) và thời Marcus Aurelius (năm 161-180 sau Công nguyên).


Đồng vàng La Mã từ năm 308 Công Nguyên và đồng vàng La Mã phát hiện tại di chỉ Óc Eo

Ngoài ra, họ còn tìm thấy một mảnh gương đồng thời Đông Hán (Trung Quốc, năm 25-220 sau Công nguyên). Gần đây, vào năm 2019, trong chương trình nghiên cứu khảo cổ học tại di tích Óc Eo - Ba Thê (An Giang) và Nền Chùa (Kiên Giang), tại di chỉ Giồng Cát trên cánh đồng Óc Eo, Viện Khảo cổ học cũng đã tìm thấy một gương đồng thời Đông Hán còn khá nguyên vẹn, rất đẹp và tinh xảo. Điều này cho thấy Óc Eo đã có những quan hệ thương mại quốc tế rộng rãi. Thêm vào đó, Óc Eo còn là nơi đô hội phồn vinh, thu hút các thương nhân Đông Tây. Vị trí xa đất liền cũng khiến Óc Eo trở thành nơi lý tưởng để tránh bão và lưu trú chờ mùa gió thuận để tiếp tục hành trình ra Biển Đông hay Ấn Độ Dương. Tại đây, người ta cũng dễ dàng thuê tàu đi Đông hoặc đi Tây theo hải trình đã định.


Với sự hợp tác của các nhà khảo cổ học quốc tế đã phát hiện những sản vật đặc trưng của Óc Eo như hạt thủy tinh ở các thương điếm trên con đường hương liệu từ Ai Cập đến Nhật Bản. Hay các cuộc khai quật của khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy có một số loại hình đặc biệt như các loại hạt chuỗi hình cầu, các loại vòng cổ vòng tay, hoa tai phong phú về kiểu dáng, nhẫn với hoa văn tinh xảo như chữ Sanscript, hình bò Nadin và các loại đồng tiền vàng La Mã ở Óc Eo càng chứng minh đó là càng cổ sầm uất.

Tuy nhiên, do quá trình vận động của địa chất, việc dịch chuyển sông rạch từ tây sang đông làm cô lập Óc Eo, nên đến thế kỷ thứ VI, thương cảng Óc Eo đã mất vai trò của mình.


Theo TS. Nguyễn Thế Anh ( ST )



Trở lại