BỘ ĐÔI VISHNU VÀ SHIVA THEO TÍN NIỆM BÀ LA MÔN GIÁO
Vai trò bộ đôi Vishnu và Shiva trong nền văn hóa Óc Eo cũng được khẳng định qua pho tượng Bà Chúa Xứ được thờ cúng trong một ngôi miếu lớn cùng tên tọa lạc tại thị trấn Núi Sam thuộc thành phố Châu Đốc. Pho tượng Bà nguyên nằm trên đỉnh núi Sam, nơi mà ngày nay là điểm xuát phát của nghi lễ rước kiệu Bà diễn ra trong lễ hội Bà Chúa Xứ vào ngày 22 tháng Tư Âm lịch hàng năm. Vết tích còn lại là một chiến Yoni (sinh thực khí nữ biểu trưng cho nữ thần Partvati hay Uma) với công năng dùng làm chiếc bệ cho pho tượng Bà đặt bên trên. Hình tướng của Bà và chiếc bệ còn lại cho thấy nhiều khả năng, đây chính là tượng thần Shiva, vị thần hủy diệt và đồng thời biểu trưng của trường phái khắc kỷ hay khổ hạnh của Bà La Môn giáo, khi thần thoại mô tả Shiva hành thiền trên đỉnh núi thần Kalaisa với tấm da hổ phủ lên thân thể nhuốm màu rêu phong. Trong nghệ thuật tiếu tượng học Bà La môn giáo, chỉ có thần Shiva hoặc Linga (sinh thực khí nam, biểu tượng của Shiva) mới được đặt trên Yoni. Sự tồn tại của chiếc bệ Yoni trên đỉnh núi Sam và nghi thức rước kiệu Bà xuất phát từ nơi phát hiện pho tượng xưa kia là một cơ sở để chứng minh nguồn gốc thần Shiva của pho tượng.
Trong quan niệm của Bà La Môn giáo, chủ nghĩa khoái lạc và đời sống khổ hạnh luôn tồn tại như một chu kỳ trong cuộc đời của mỗi con người. Nó được biểu trưng qua bộ đôi của hai vị thần Vishnu và Shiva. Trong đó, Vishnu đóng vai trò hộ trì cho sự thịnh vượng của vương quốc, duy trì một sống thế tục hạnh phúc viên mãn khi hình ảnh thần Vishnu nằm ngủ trên Biển Sữa và được người vợ yêu kiều là nữ thần Laskmi bóp chân cho thần. Do vậy, pho tượng thần Vishnu mới được dựng lên tại một thành phố thương cảng giàu có. Trên phương diện của chủ nghĩa khổ hạnh, thần Shiva biểu tượng cho đời sống thoát tục, hạnh trì giới luật Bà La Môn giáo và thiền định trên đỉnh núi thần Kalaisa nên tượng thần mới được dựng trên đỉnh núi Sam làm chỗ hành hương cho người dân mộ đạo thời xưa. ần Shiva và ngọn núi thần Kalaisa biểu trưng cho hình ảnh của những người ẩn sĩ (rishi) tu hành theo trường phái khắc kỷ của Bà La Môn giáo. Tuy nhiên, tất cả những vấn đề này đều thuộc lớp văn hóa cổ xưa khi giữa Ấn Độ và vương quốc cổ Phù Nam luôn thiết lập một mối quan hệ mật thiết trên ba phương diện chính là tôn giáo, chính trị và kinh tế.
NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ ĐỒNG HÓA THÀNH TƯỢNG PHẬT
Xét trên phương diện nghệ thuật tiếu tượng học Ấn Độ, có nhiều nét tương đồng giữa tượng Phật và tượng thần Vishnu, vì cả hai tôn giáo này đều xuất phát từ một nền văn hóa Ấn Độ. Bà La Môn giáo ra đời trước Phật giáo nhưng về mặt nghệ thuật điêu khắc thì xuất hiện muộn hơn. Do đó, tượng các thần linh thường được tạo tác tiếp nối theo những mẫu hình tượng Phật. Tượng thần Vishnu nằm ngủ trên mình rắn thần Ananta – Shesha về mặt nghệ thuật có nhiều điểm tương đồng với tượng Phật nhập Niết Bàn, đồng thời hình tượng rắn thần Naga xuất hiện phía sau lưng cả tượng Phật và tượng thần Vishnu. Tuy nhiên trong nghệ thuật điêu khắc, tượng Phật thường được thể hiện tọa thiền trên mình rắn Mucalinda. Hình tượng này thường phổ biến trong các ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer, còn tượng thần Vishnu thì được thể hiện nằm trên mình rắn Ananta – Shesha. Hai tôn giáo có tên gọi về rắn thần khác nhau nhưng trong nghệ thuật tạo hình lại thể hiện giống nhau với hình tượng con rắn bảy đầu gọi chung là rắn thần Naga.
Khi pho tượng thần Vishnu mới phát hiện tại khu vực chợ Ba Theê, những người Khmer trong vùng cho rằng đó là tượng Neakta Phnom, tức vị thần núi trong tín niệm của họ. Song với tất cả nỗ lực nhằm mang tượng thần về thờ tại chùa Kal Bopruk nằm ở chân núi Ba Thê không thành nên những người bạn Khmer phải bỏ cuộc. Điều này làm cho cư dân người Việt tin rằng pho tượng muốn được về một trong những ngôi chùa Phật giáo Bắc tông. Giai thoại dân gian cho rằng khi dân làng là những người Việt đến địa điểm xuất lộ để mang tượng đi thì trọng lượng của pho tượng trở nên nhẹ đến kì lạ nhưng khi đến gần Linh Sơn Tự, pho tượng lại trở thành quá nặng. Các cụ cao niên cho rằng pho tượng muốn được thờ cúng trong ngôi chùa này và họ tin chắc đây chính là tượng Phật. Linh Sơn Tự lại là một ngôi chùa nhỏ, trước đó người dân địa phương đã mang hai chiếc bia đá khắc chữ cổ vào trang trí hai bên bệ thờ Phật, nay muốn đặt pho tượng thần Vishnu vào khoảng trống giữa bệ thờ thì phải đặt theo tư thế đứng mới đủ chỗ. Tuy nhiên, tượng được làm ra trong tư thế nằm nên khi đặt theo chiều đứng sẽ trở nên thiếu thẩm mỹ. Nhà chùa và dân làng phải tìm cách khắc phục bằng cách đắp thêm đôi chân ở phần hông của pho tượng, còn phần đôi chân nguyên thủy thì xây bệ vây kín lại. Với giải pháp này, pho tượng thần Vishnu nằm được chuyển hóa thành tượng Phật tọa trên thiền trên mình rắn thần Mucalinda, tương tự như loại tượng của Phật giáo Nam tông Khmer mà người dân thấy trong chùa Kal Bopruk của người Khmer nằm gần Linh Sơn Tự.
MỐI QUAN HỆ GIỮA ÓC EO VÀ ẤN ĐỘ
Từ vị trí của một thương cảng nổi tiếng, khu di tích Óc Eo – Ba Thê đã tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa từ Ấn Độ vào những thế kỷ đầu Công nguyên. Trong số những mối quan hệ văn hóa mang tính chất xuyên suốt diễn ra nhiều thế kỷ, Bà La Môn giáo và Phật giáo Ấn Độ có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần của cư dân Phù Nam. Tại thương cảng Óc Eo – Ba Thê, việc thờ cúng thần Vishnu cho thấy sự phát triển của loại hình tín ngưỡng liên quan đến biển của giới thương nhân Ấn Độ. Mẫu hình xây dựng những tượng đài thần Vishnu nằm ngủ trên mình rắn thần Ananta – Shesha đã phổ biến tại các thương cảng ở Ấn Độ, vì vậy tầm ảnh hưởng đó lan rộng đến Óc Eo cũng là một điều tất nhiên. Vì phần nhiều thương nhân buôn bán ở đây là người Ấn Độ hoặc người bản địa theo Bà La Môn giáo. Như vậy, vai trò thương cảng của Óc Eo đã dẫn đến sự kết nối văn hóa xuyên quốc gia, Ấn Độ - Phù Nam. Vương quốc Phù Nam suy tàn và kết thúc vào giữa cuối thế kỷ thứ VI để rồi được thay thế bằng những lớp văn hóa mới. Đầu thế kỷ XX, pho tượng thần Vishnu được phát hiện khi lớp di dân người Việt đã định cư rộng khắp trên vùng thương cảng Óc Eo xưa kia. Sự suy tàn của một nền văn hóa mà không có một lớp cư dân sự kế thừa đã làm cho mạch sống của đạo Bà La Môn lụi tàn và chìm vào quên lãng. Pho tượng Vishnu ở Linh Sơn Tự và tượng thần Shiva ở núi Sam đã được đồng hóa vào nền văn hóa mới của người Việt vốn không chịu ảnh hưởng Ấn Độ. Từ đó tín ngưỡng Phật bốn tay và Bà Chúa Xứ mới được hình thành theo tâm thức dân gian của lớp người Việt đi khai phá vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Nguồn: Phan Anh Tú